Tình hình biên giới trước chiến tranh 1075-1077 Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý

Giữa nhà Lý và các thủ lĩnh vùng biên

Khi nhà Tống thành lập, các quan lại coi Ung châu và Quế châu tìm cách thu phục các tù trưởng này, và có một số các tù trưởng ở gần đồn binh nhà Tống quy phục; còn số khác giữ độc lập hoặc theo nhà Lý[9]. Vì nước Đại Việt nhỏ, sự tiếp cận của triều đình nhà Lý với các tù trưởng này dễ dàng hơn.

Sự tồn tại và phát triển của các tù trưởng địa phương độc lập tại vùng biên là khó chấp nhận đối với nhà Lý bởi các lý do[10]:

  1. Các tù trường này không ít lần gây ra chiến tranh, xung đột với các tộc xung quanh, cướp phá lẫn nhau. Điều này từng xảy ra nhiều lần thời thuộc Đường và tới thời Lý vẫn tiếp diễn
  2. Họ gây chiến với cả triều đình trung ương khi đủ lớn mạnh. Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, chỉ trong hơn 40 năm từ thời Lý Thái Tổ tới thời Lý Thái Tông đã có ít nhất 20 cuộc nổi dậy của lực lượng này.

Kế tục nhà Tiền Lê, Lý Thái Tổ, sau những lần thân chinh và sai các hoàng tử đi chinh phạt các tù trưởng địa phương, đã nhận ra cách phân phong cho các hoàng tử về địa phương (như nhà Tiền Lê) hay đi đánh dẹp bạo loạn không phải là biện pháp hữu hiệu để củng cố quyền lực, tiêu trừ các lực lượng chống đối ở xa. Ông quyết định dùng chính sách “nhu viễn” (mềm dẻo với phương xa), và sau đó các vua Lý kế tục vẫn thực hiện[11][12][13]:

  1. Lôi kéo các tù trưởng miền núi tham gia bộ máy chính quyền. Họ được trao chức vị, bổng lộc ưu đãi đặc biệt
  2. Dùng quan hệ hôn nhân để kết thân với các tù trưởng. Nhà Lý có chính sách gả công chúa cho các châu mục (chức quan đứng đầu các châu): công chúa Bình Dương được gả cho Châu mục châu Lạng là Thân Thiệu Thái, công chúa Kim Thành (hay Khánh Thành) gả cho châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận, công chúa Trường Ninh gả cho châu mục châu Thượng Oai là Hà Thiệu Lãm, công chúa Ngọc Kiều được gả về châu Chân Đăng cho châu mục họ Lê, công chúa Thiên Thành cho Thân Đạo Nguyên (con trai công chúa Bình Dương và Thân Thiệu Thái), công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh, công chúa Diên Bình cho Thủ lĩnh Phú Lương là Dương Tự Minh... Họ Giáp có tới 3 đời làm phò mã triều Lý, đổi sang họ Thân.

Ngoài hình thức bang giao bằng các đoàn sứ bộ sang tận kinh đô của nhau, hai nước Đại Việt và Tống có thỏa thuận cho phép giao dịch hai bên tại vùng biên. Vì lo ngại những người giả mạo vào buôn bán để do thám, hai nhà Lý và Tống thống nhất với nhau cho thương nhân hai bên qua lại, nhưng chỉ ở những địa điểm được chỉ định, gọi là Bạc dịch trường (chợ quốc tế) tại trại Vĩnh Bình, châu Tô Mậu, châu Quảng Nguyên…[14].

Dù đã dùng chính sách kết thân và phủ dụ, vẫn có không ít trường hợp nhà Lý phải dùng đến vũ lực để dẹp yên vùng biên. Vua Lý thường sai các hoàng tử, tướng lĩnh trong triều và thậm chí tự mình nhiều lần thân chinh cầm quân đi đánh dẹp các thủ lĩnh địa phương. Điển hình trong chính sách kết hợp vừa đánh dẹp vừa phủ dụ của nhà Lý là trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc – Nùng Trí Cao. Sau khi 2 lần đánh bại cha con họ Nùng, vua Lý Thái Tông lại tha tội cho Nùng Trí Cao, phong chức và cấp đất cho Trí Cao cai quản vùng biên Quảng Nguyên. Trái ngược với quan điểm Nho giáo của Lê Văn Hưu thời Trần cho rằng vua Lý tha Trí Cao là “nhu nhược, bị đạo Phật mê hoặc”, sử gia hiện đại Hoàng Xuân Hãn cho rằng Lê Văn Hưu đã không hiểu hết thâm ý của Lý Thái Tông[15]. Dụng ý của Lý Thái Tông, và sau này Lý Thánh Tông kế tục vẫn thi hành, là triệt để lôi kéo các thủ lĩnh vùng biên cương tự trị giữa Lý và Tống – những người vốn độc lập và không lệ thuộc ai – mà triều đình trung ương Bắc Tống ở quá xa, ít có điêu kiện vươn tới. Việc lôi kéo được các thủ lĩnh vùng này về theo triều đình sẽ giúp nhà Lý mở rộng cương thổ phía bắc; các thủ lĩnh thần phục kéo theo sự quy phục của dân bản địa và có đất đai vùng đó, khi nhà Tống biết ra thì thường đã chậm. Cách làm của nhà Lý là “làm trước cãi sau”[16]. Riêng với trường hợp Nùng Trí Cao, Lê Văn Siêu còn có quan điểm đi xa hơn khi ông cho rằng Lý Thái Tông bỏ qua nhiều lỗi cho Nùng Trí Cao, lại còn trọng đãi là mục đích khiến Trí Cao cảm phục, không quấy vùng biên Đại Việt nữa mà quay sang phía bắc đánh vào lãnh thổ Tống[17].

Những vùng nhiều biến cố nhất đương thời là Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng. Bằng sự kết hợp giữa đức và uy, nhà Lý mở rộng cương thổ lên phía bắc, sang phía Tả Giang và Hữu Giang[18].

Giữa nhà Lý và nhà Tống

Thời kỳ đầu

Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao bằng sứ bộ, cả nhà Tống và nhà Lý đều sợ người ngoài vào giả mạo buôn bán để do thám, nên chỉ cho người của hai bên sang giao dịch tụ họp với nhau tại những nơi nhất định gọi là Bạc dịch trường. Tại châu Vĩnh Bình, trại Cổ Vạn, châu Tô Mậu, trại Hoành Sơn, châu Khâm, châu Vĩnh An… đều có ghi nhận sự xuất hiện của các bạc dịch trường[19].

Năm 1022, các dân Đại Nguyên Lịch thuộc châu Khâm và trại Như Hồng tới quấy rối trấn Triều Dương. Lý Thái Tổ sai Dực Thánh vương. Dực Thánh vương mang quân tiến sâu vào đốt phá trại Như Hồng bên đất Tống rồi mới trở về.

Năm 1028, nhân chúa châu Thất Khê (Thất Nguyên) là Lý Tự chết, phò mã Thân Thừa Quý mang quân tiến vào đất Tống, bắt dân Tống mang về. Viên quan coi Ung châu của nhà Tống bàn giảng hòa, Lý Thái Tổ chấp thuận[20].

Năm 1034, dân Đại Cồ Việt là Trần Công Vinh chống lại nhà Lý, mang 600 người chạy vào đất Tống. Lý Thái Tông sai hơn 1000 quân đuổi bắt. Tống Nhân Tông không muốn gây hấn với Đại Việt, sai đưa 600 người của Công Vinh trả lại cho Đại Việt, nhưng dặn không làm hại họ[21].

Năm 1036, dân vùng biên bên Tống thuộc các châu Lạng, Môn, Tô Mậu, Quảng Nguyên, động Đại Phát, châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên nổi lên chống lại vua Tống, đánh sang châu Tây Bình, Tư Lăng, Thạch Tây thuộc Ung châu, cướp phá rồi rút lui. Cùng lúc, dân động Giáp bên Đại Cồ Việt (thuộc quyền họ Thân làm phò mã nhà Lý) cũng kéo sang cướp phá châu Tư Lăng và động Bằng Tường của Tống, giết tướng giữ trấn Đăng Uyển của nhà Tống. Tống Nhân Tông cũng bàn giảng hòa với phía Đại Việt[22].

Năm 1050, tướng giữ Ung châu nhà Tống dụ được các tù trưởng Vi Thiệu Tự, Vi Thiệu Khâm cùng 3000 dân ở châu Tô Mậu. Lý Thái Tông đòi lại. Tống Nhân Tông trả lại và dặn nên quản lý tốt dân vùng biên không nên để phạm lẫn nhau[23].

Vụ Nùng Trí Cao

Trong vụ bạo loạn của Nùng Trí Cao tại vùng biên Đại Cồ Việt và Tống, cả 2 nước cùng bị tác động. Lý Thái Tông sau 2 lần ra tay đánh dẹp đã dùng biện pháp trọng đãi để thu phục họ Nùng. Nùng Trí Cao sau đó quay sang đánh vào đất Tống, làm vùng biên phía nam nhà Tống bị rối loạn suốt 8 châu trong 4 năm. Khi quân Tống có vẻ núng thế trước họ Nùng, Lý Thái Tông từng tỏ ýxin mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Khi quân Đại Cồ Việt sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch Thanh can Tống Nhân Tông không nên để quân Đại Cồ Việt vào, vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh dẹp Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp. Cuối năm 1053, Nùng Trí Cao yếu thế trước quân Tống, sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý rồi sau đó bị giết. Quân Lý rút về.

Cuối cùng danh tướng Địch Thanh đánh bại được Trí Cao. Con Nùng Trí Cao là Nùng Tiến Hội và cháu là Nùng Tiến An đầu hàng nhà Tống. Cũng từ sau cuộc nổi dậy của Trí Cao, nhà Tống bắt đầu quan tâm hơn tới vùng biên phía nam, cắt quan canh phòng cẩn mật và có ý dòm ngó Đại Cồ Việt[24].

Việc chú trọng phát triển lên phía bắc của nhà Lý đã đạt kết quả. Trên danh nghĩa, vua Tống coi châu Quảng Nguyên thuộc Ung châu của mình, nhưng trên thực tế châu này đã theo nhà Lý[25]. Nhà Tống dùng Tiêu Chú làm người trấn giữ biên cương phía nam, Tiêu Chú có chủ trương đánh Đại Việt nên rất quan tâm chuẩn bị binh mã lương thảo.

Vùng Lạng Sơn

Năm 1057, Lý Thánh Tông sai sứ sang cống thú lạ cho nhà Tống, bảo là con lân. Vua Tống nghe lời Tư Mã Quang (sợ không chắc là con lân thì các nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt rồi sai mang con thú về. Sang đầu năm sau, tướng Tống là Tiêu Chú cũng mang quân đi tuần, diễu qua các khê động vùng biên. Tống Nhân Tông phải hạ chiếu ngăn cấm kẻo gây hấn. Nhưng Lý Thánh Tông vẫn giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm 1059 bèn mang quân đánh vào đất Tống. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ chép sơ lược: vua Thánh Tông tiến quân vào Khâm châu để thị uy rồi rút về[26]. Nhưng các sách Tống chép quân nhà Lý đánh vào châu Cổ Vạn, giết viên quan quản châu là Lý Duy Tân và đánh động Tư Lẫm phía tây Khâm châu[27].

Tiêu Chú nhân đó dâng biểu về kinh đề nghị Tống Nhân Tông nên đánh Đại Việt, nhưng các tướng coi lộ Quảng Tây là Lý Sư Trung, Tống Hàm không đồng tình, tâu lên vua Tống rằng chỉ vì Tiêu Chú ham công hiếu chiến. Do đó vua Tống lại hòa giải.

Cùng trong năm 1059, dân Đại Việt chạy trốn tới châu Tây Bình giáp Lạng châu. Viên quan coi châu Tây Bình là Vi Duệ Chính giấu đi. Lý Thánh Tông liền sai châu mục Lạng châu là Thân Thiệu Thái mang quân từ động Giáp vào huyện Như Ngao thuộc châu Tây Bình để đòi lại dân. Tống Nhân Tông lệnh cho Ung châu mang quân ra đánh. Đô giám tuần kiểm bên Tống là Tống Sĩ Nghiêu mang quân ra chống lại quân Lý. Thân Thiệu Thái rút lui, Sĩ Nghiêu tiếp tục tiến binh, vượt qua động Giáp, bị quân Lý đón đánh, giết và bắt khá nhiều quân Tống[28]. Sang năm 1060, Thân Thiệu Thái lại mang quân sang đất Tống, giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng các thuộc tướng Lý Đức Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật.

Tống Nhân Tông nghe tin, bèn sai Tiêu Cố mang quân đến Ung châu, hợp với Tống Hàm và Lý Sư Trung đánh trả. Thân Thiệu Thái từ Tây Bình tiếp tục tiến vào trại Vĩnh Bình làm chấn động Ung châu[29]. Nhà Tống lo lắng, lệnh điểm binh, thay quân già yếu, chuẩn bị thành chiến tranh lớn. Thân Thiệu Thái vẫn tiếp tục tiến quân, bắt sống chỉ huy sứ Dương Lữ Tài (sử Việt chép là Dương Bảo Tài), nhiều dân binh và gia súc bên Tống. Vì việc này, cả viên quan coi Quế châu là Tiêu Cố và viên quan coi Ung châu là Tiêu Chú đều bị Tống Nhân Tông cách chức vì bị luận tội “không xét công việc các biên lại, để chúng sinh sự, làm hại cho quan quân”[30].

Năm 1060, quân Lý vẫn chưa lui. Cánh quân từ châu Tô Mậu của Đại Việt cũng tiến vào Ung châu họp với quân động Giáp. Tống Nhân Tông bèn sai Dư Tĩnh làm An phủ sứ, họp quân với Lý Sư Trung để kháng cự. Dư Tĩnh định dùng kế xúi giục Chiêm Thành đánh từ phía nam, nhưng không kịp thi hành, bèn dùng biện pháp ôn hòa để chủ động điều đình với phía Đại Việt trước, còn Lý Sư Trung đưa thư về triều kể tội Tiêu Chú “hà hiếp dân man, bắt dân tìm vàng cho riêng mình”[31].

Về sự kiện này, sách Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng chép rời rạc hơn, thành 2 sự việc. Trong đó năm 1059, nhà Lý tiến vào Ty Lẫm Quản, Khâm châu và năm 1060 thì quân Lý liên minh với lực lượng phản Tống ở Giáp Động tiến vào đánh Ung châu. Nhà Tống phải lệnh cho Tri châu là Tiêu Cố, Chuyển vận sứ Tống Hàm và Đề hình Lý Sư Trung cùng chặn đánh. Lý Thánh Tông bèn rút lui, nhà Tống cũng lệnh các cánh quân dừng lại không tham chiến và chờ sự phục tùng của Đại Việt[32]

Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hựu đi thương nghị với Dư Tĩnh. Dư Tĩnh tặng Gia Hựu rất hậu đề nghị trả lại Dương Lữ Tài. Tuy nhiên Lý Thánh Tông không chấp nhận thả Lữ Tài.

Vùng Cao Bằng

Năm 1057, tù trưởng động Lôi Hỏa (tây bắc Cao Bằng) là Nùng Tông Đán mang quân vào đánh Ung châu. Tiêu Chú muốn đánh trả, nhưng Tiêu Cố không cho, muốn chiêu dụ. Vương Hãn đồng tình, bèn gọi con Tông Đản là Nùng Nhật Tân đến dụ. Cuối cùng cả 2 cha con Tông Đản hàng Tống và nhận chức do nhà Tống phong[33].

Năm 1062, cha con Nùng Tông Đản lại mang động Lôi Hỏa và Kế Thành nộp cho nhà Tống và xin tới ở Lạc châu. Nhà Tống nhận đất và cho Tông Đản coi giữ 2 động cũ, đổi gọi là châu Thuận An, còn Nùng Nhật Tân ra giữ việc coi thuế ở Ung châu.

Động Lôi Hỏa của Nùng Tông Đản giáp với châu Quảng Nguyên do Lưu Kỷ cai quản. Lo sợ bị Lưu Kỷ uy hiếp, năm 1064, Tông Đản nghe theo lời dụ của viên quan coi Quế châu là Lục Sằn, nộp hết đất đang giữ cho nhà Tống và xin ở sâu trong đất Tống. Việc Tông Đản theo Tống lần đó khiến nhà Lý bị mất khá nhiều đất ở phía tây bắc châu Quảng Nguyên, gồm động Lôi Hỏa, động Kế Thành, châu Ôn Nhuận.

Lý Thánh Tông sai phò mã, châu mục Phong châu là Lê Tông Thuận đi sứ đòi Lục Sằn trả lại Nùng Tông Đán và các động. Lục Sằn tâu về triều. Tống Anh Tông mới lên ngôi, nghe lời khuyên của thừa tướng Hàn Kỳ, bèn trả lại 2 châu Lôi Hỏa và Ôn Nhuận; còn cha con Tông Đản vẫn làm quan với nhà Tống[34].

Năm 1073, nhà Tống phong Nùng Tông Đán làm Đô giám Quế châu, Nùng Trí Hội coi châu Quy Hóa. Cùng năm, Nùng Thiện Mỹ ở châu Ân Tình (Bắc Kạn), nghe theo lời dụ của Thẩm Khởi bên Tống, mang 700 người sang hàng Tống.

Thẩm Khởi lại dụ được Lưu Kỷ ở châu Quảng Nguyên, nhưng Tống Anh Tông ngại nhà Lý sẽ đòi lại Lưu Kỷ nên chần chừ không nhận; lại thấy Thẩm Khởi gây việc biên giới nhiều sẽ kích động Đại Việt, nên cách chức Thẩm Khởi, cho Lưu Di thay coi Quế châu.

Cận cuộc chiến 1075-1077

Khi Tống Thần Tông lên ngôi (1067) và trọng dụng Vương An Thạch, phong làm tể tướng (1069), phe chủ chiến phía Tống thắng thế phe chủ hòa trong triều đình Bắc Tống.

Nhà Tống tăng cường quân phòng bị mặt nam, để ở Ung châu 2 đội quân, mỗi đội 5000 người, gồm 2000 người trong thành Ung và 3000 người chia nhau ra các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Lương[35]. Tại Khâm châu có Phòng biên tuần sứ, lãnh 500 quân đóng ở các trại Như Tích và Để Trạo. Đó là số quân chính quy của triều đình, ngoài ra còn có quân địa phương như thổ đinh, động đinh.

Sau đó nhà Tống tăng thêm quân vùng biên. Tháng 12 năm 1070, sứ Đại Việt là Lý Kế Nguyên sang Tống, bị bên Tống ngăn trở không cho đến Biện Kinh, đòi phía Đại Việt trả lại số dân mà nhà Lý đã bắt.

Lưu Kỷ giữ châu Quảng Nguyên, thu dụng các thủ hạ cũ của Nùng Trí Cao là Hoàng Trọng Khanh và Lư Báo. Lưu Kỷ mang 3000 quân sang tấn công Ung châu, cha con Nùng Tiến Hội và Nùng Tiến An chống giữ, Lưu Kỷ phải lui quân về.